GIÓ
GỌI
Thơ:
Nguyễn Hồng Oanh
Bình:
Phạm Phương Lan
Chị - Người phụ nữ phúc hậu,
gương mặt lúc nào cũng tươi roi rói. Gặp chị lúc nào cũng chỉ thấy chị cười
thôi. Ấy nhưng khi đã bắt đúng mạch cảm xúc, chị có thể đưa hết cả ruột gan ra
mà nói, nói không ngừng. Điều chị nói lại không gì khác ngoài Kiều, Dân ca xứ
nghệ và những bài thơ oằn mình trước những ưu tư về “Gió” - những ngọn gió tâm
linh bay bổng, mát lành. Chúng ta hãy cùng đến với chị - Nghệ nhân ưu tú Nguyễn
Hồng Oanh qua bài thơ “Gió gọi” .
Quả thật, đọc bài thơ Gió
gọi trong tập thơ cùng tên của chị, lòng tôi bỗng rung lên những cảm xúc lạ kỳ.
Những thanh âm trong trẻo cứ bay bổng ngân nga. Nó có một sức quyến rũ không tưởng,
khiến tôi không thể không bốc điện thoại
lên chia sẻ cùng chị.
Suốt năm năm trời chị cùng
các đồng đội thanh niên xung phong ngầy ấy đã lặn lội khắp các nghĩa trang liệt
sĩ lớn nhỏ, từ vùng sâu vùng xa, đến miền biên giới, hải đảo. Những nén nhang
thay cho tấm lòng biết ơn thành kính chị dâng lên các anh chị - những chàng trai, cô gái mười tám, đôi mươi lấy
ngực mình che cho đất nước, bỗng chốc nằm xuống. Họ không hề nghĩ rằng mình chiến
đấu hi sinh để được gì cho bản thân cả. Họ ngã xuống nhẹ nhàng như ngọn gió.
Người
bỗng thành ngọn gió
Bay
về phía vô cùng
Người
bỗng thành giọt nắng
Tỏa xuống dòng sông xanh
Nếu những tác giả khác
thường sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa để thổi hồn vào sự vật, thì ở bài thơ
Gió gọi, tác giả Nguyễn Hồng Oanh lại làm điều ngược lại. Chị ví những người
chiến sĩ đã khuất như những “ngọn gió”,
những “giọt nắng”. Lối sử dụng biện
pháp tu từ nhân hóa ngược ấy đã mang lại hiệu quả diệu kỳ khác thường. Một sự
thành công hơn cả mong đợi. Cách ví ấy đã giúp chị thêm một lần nữa tái sinh họ
- những anh hùng liệt sĩ. Để trong thơ, họ trở thành ngọn gió mát lành thổi về muôn
nẻo trên quê hương Việt Nam yêu dấu. Họ hóa thân vào những giọt nắng sưởi ấm cỏ
cây, vạn vật. Và hơn thế nữa, giọt nắng ấy đang ngày đêm sưởi ấm muôn triệu
trái tim, làm ấm lòng chúng ta và những thế hệ mai sau. Ngọn gió mát lành và giọt
nắng vô tư ấy cứ điềm nhiên “Tỏa xuống
dòng sông xanh” hòa vào đất mẹ bao
dung.
Gió
gọi về phía núi
Nắng
gọi về vườn xưa
Tiễn
người về quê mẹ
Kịp
trước mùa bão mưa
Các anh, các chị đã ra đi
mãi mãi, đã trở thành những anh hùng, đã hóa thân thành nắng, gió thổi miên man
khắp đất trời tổ quốc. Song ở quê nhà, nơi có căn nhà lá và người mẹ thương yêu
thì vẫn ngày đêm canh cánh chờ con. Mẹ vẫn ngồi đó bên ánh đèn khuya và cánh cửa
nhỏ không bao giờ khép. Hơn ai hết, tác giả cùng những đồng đội của mình thấu
hiểu nỗi chờ mong của mẹ. Họ đã cùng nhau quy tập hài cốt, đưa các anh, chị về
với mảnh vườn quê nơi có triền đê ngả bóng chiều hè, nơi có tiếng ru ầu ơ của mẹ
vọng về đêm đêm.
“Gió gọi
về phía núi/ Nắng gọi về vườn xưa/ Tiễn người về quê mẹ/ Kịp trước mùa bão mưa.”.
Những trái tim lớn, những tấm lòng bao dung chất chứa yêu thương đã gặp nhau ở
đây, để cùng đưa các anh, chị về với quê mẹ trước mùa mưa bão. Họ sợ mưa gió sẽ
không thuận lợi cho việc cất bốc. Họ sợ các anh, chị một lần nữa chịu ướt mưa, bão
tố. Đọc đến đây, dù cho câu thơ cứ trong veo, nhẹ như sương khói, nhưng sao trái
tim tôi cứ thắt lại, tình thương yêu chan chứa ngập lòng, nước mắt ngân ngấn,
cay xè khóe mắt.
Về
trên đồi sim tím
Nắng
sưởi ấm thân gầy
Chim
sơn ca của mẹ
Hát đầy lời gió mây..
Và
giờ đây, các anh, các chị đã được về với quê mẹ, nơi có đồi sim tím ngát chiều
hè, nơi ngày thơ bé các anh, chị vẫn rủ nhau đùa nghịch, rộn vang tiếng cười khoe
hàm răng đen kịt màu sim chín. Nơi hình ảnh tuổi thơ hồn nhiên trong trẻo ngày
nào như vẫn còn in trên đường làng, ngõ xóm. Giờ đây, các anh chị đã là những
ngọn gió mát lành, là những giọt nắng ấm áp sưởi ấm tấm thân gầy của mẹ. Có gì
vui hơn khi được trở về trên đất quê hương, được quây quần bên những người thân
yêu, được ủ ấm trong lòng mẹ bao la.
Dù
ở hai thế giới nhưng trong bài thơ, tác giả cho ta thấy một sự hòa quyện đầy
nhân văn: “Về trên đồi sim tím/ Nắng sưởi
ấm thân gầy/ Chim sơn ca của mẹ/ Hát đầy lời gió mây”. Thực tế mẹ - con
cách biệt âm dương. Nhưng trong bài thơ, các con của mẹ đã là những giọt nắng ấm
áp cho đời. Đặc biệt là hai câu thơ cuối bài. Hình ảnh “chim sơn ca của mẹ” gợi
lên cảm giác đầy yêu thương trìu mến. Các con dù đã lớn khôn, sẵn sàng đứng
lên, lấy sinh mạng của mình che chắn cho đất nước qua cơn mưa bom bão đạn. Các anh
chị dù đã trở thành những anh hùng dân tộc. Song, trong mắt mẹ, các anh, các chị
mãi là những chú chim sơn ca nhỏ bé, líu lo bên mẹ năm tháng không rời. Và dĩ
nhiên, tiếng hót của chim sơn ca thì luôn trong trong trẻo lảnh lót, vang xa khắp trời mây.
Bằng
thể thơ năm chữ, và cách nhân hóa ngược, tác giả đã đưa người đọc đi vào thế giới
tâm linh một cách nhẹ nhàng, tự nhiên mà hết sức bay bổng. Tình yêu quê hương đất
nước là thông điệp ngầm ẩn sau tình cảm của tác giả - người thụ hưởng hòa bình
hạnh phúc đối với các anh, chị - người đã hi sinh tuổi đôi mươi đẹp đẽ của mình
cho đất nước đứng lên, ẩn sau cả sự chờ mong khắc khoải và tình yêu thương vô bờ
của những người mẹ. Nó như ngọn lửa ấm áp thổi mơn man xuyên suốt bài thơ, bay khắp
miền quê hương và rọi qua bao thế hệ người Việt Nam. Thơ chị luôn đau đáu về thế
giới tâm linh, đau đáu về nỗi niềm tri ân những con người đã ngã xuống cho non
sông gấm hoa này được trường tồn, phát triển. Trong mạch viết ấy, bài thơ Gió gọi
như một nốt nhạc vui, như khúc hoan ca trong trẻo, hồn nhiên, thánh thiện vô ngần./.